Trang Web Hướng Dương Txđ |
Trí Thức và Chính Trị |
Nói rằng cứ là trí thức là phải có ý thức chính trị là kể một chuyện hoang đường (a myth): Không phải chỉ có Havel nghĩ như thế về người trí thức. Trước ông, Zola, Benda, Orwell, Kolakowski và nhiều tác giả khác cũng đã nhấn mạnh đến cái nhiệm vụ cao cả của người trí thức là, như lời của Ignazio Silone, “khiêm tốn nhưng can đảm phục vụ chân lý (humble and courageous service of the truth).” Sở dĩ danh từ “trí thức” gắn liền với những hình ảnh cao thượng là vì đứng trên cương vị tập thể, vào thế kỷ thứ 19 bên Nga, danh từ “intelligentsia” tức “giới trí thức” được định nghĩa như là những người (1) quan tâm xâu xa đến những chuyện lợi ích công cộng; (2) có ý thức cá nhân về trách nhiệm đối với quốc gia; (3) thường coi những vấn đề chính trị và xã hội là những vấn đề đạo đức; (4) thấy có bổn phận phải đi tìm cho bằng được những kết cuộc hợp lý cuối cùng; và (5) tin tưởng rằng có một chuyện gì không đúng đang xẩy ra và cần phải được sửa sai (Confino, 1972, p. 118).) Tuy nhiên, trong những năm gần đây, quan điểm trên - của truyền thuyết đạo đức (moralist tradition) – không còn được nhiều tác giả chấp nhận. Ngày nay, những lý thuyết gia thuộc trường phái xã hội cho rằng lối suy diễn của những học giả theo thuyết đạo đức không đúngvới sự thật vì nó chỉ nêu lên một hình ảnh mà người ta mơ tưởng về người trí thức mà thôi. Nói cách khác, hình ảnh người trí thức tranh đấu cho lẽ phải, cho ích lợi của đa số, và quyền lợi của đất nước chỉ là điều người ta mong đợi nếu không muốn nói là ước mơ. 1. Trí thức có khả năng nhận thức chính trị. a. Trí thức là những người có tầm mức hiểu rộng hơn những con người bình thường, họ đã trải qua một tiến trình dài hấp thụ những kiến thức văn hóa hay chuyên môn và ngày nay có người định nghĩa trí thức là những kẻ đã tốt nghiệp đại học. Người trí thức có khả năng lý luận, có đầu óc sáng suốt, biết phân biệt chân lý và sự giả dối, biết phân định đâu là lẽ phải và đâu là sai trái. Người trí thức có những khả năng trí tuệ như biết phân tích, biết những phương thức tìm tòi, nghiên cứu đễ nhận thức chân lý. Từ bản chất, người trí thức “mẫu mực” là kẻ có lý tưởng, thích theo đuổi một mục đích cao xa, thích hành động sao cho có lợi cho tập thể, thích tranh đầu cho quyền lợi và hạnh phúc của người khác. b. Ở những nước tiến bộ, người làm chính trị phải là trí thức. Ngày nay nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học kỹ thuật đòi hỏi người làm chính trị phải có những kiến thức xâu rộng, những khả năng nhận thức và quyết định của những nhà chuyên môn về các ngành chính trị, luật pháp, tài chính kinh tế, giáo dục hay xã hội học. Những người nắm quyền hành chính trị thường là những nhà đại trí thức dày kinh nghiệm cả về lý thuyết lẫn thực hành. Họ thường có những bằng cấp đại học bậc tiến sĩ hay cao hơn. Trái lại ở những nước chậm tiến với những chính thể độc tài, những người nắm quyền lực trong tay thường là những kẻ không có học thức, không có tầm hiểu biết rộng cả về mặt chính trị lẫn chuyên môn, Chính vì thế mà họ chỉ tranh đấu cho chính họ, gia đình họ, và một thiểu số những đàn em mà không màng đến quyền lợi chung của người dân và của đất nước. Riêng ở nước ta, tất cả những quyết định của Đảng và Nhà Nước đều nhằm bảo vệ quyền lợi của Đảng - tức là của những đảng viên – và quyền lợi của nhà nước - nhắm vào sự tồn tại của chế độ hiện tại. Vì những người lãnh đạo không là những trí thức nên chế độ không coi trọng trí thức và không có kế hoạch qui mô đào tạo những người trí thức, là những người có khả năng chuyên môn để đưa đất nước tới một trình độ phát triển thật sự. Chưa nói đến chuyện nhà cầm quyền không tin tưởng ở người trí thức, vì lý do đơn giản là người trí thức không mù quáng nghe theo họ và nếu không ra mặt chống lại thì cũng không hoàn toàn ủng hộ và dễ bất mãn trong lòng. Mặc dù trên thực tế, trí thức phải cộng tác với nhà cầm quyền để sống còn nhưng có nhiều yếu tố làm cho mối liên lạc giữa trí thức và nhà cầm quyền trở nên phức tạp và mâu thuẫn. Trí thức dễ bị thu hút bởi quyền lực và kính nể những kẻ có quyền hành nhưng đồng thời lại vừa kinh hãi vừa ghê tởm họ. Chính vì vậy một khi thoát ra sự kiềm tỏa của chính trị thì họ không còn mối liên lạc cộng tác nữa và sẵn sang bầy tỏ lập trường chống đối của họ. Những đảng viện đảng Cộng sản Việt Nam thoát khỏi Việt Nam hay đã về hưu giờ đã dám công khai chống đối “Đảng và Nhà Nước” là vì vậy - để rồi có thể bị bắt đi tù đầy. So với những tầng lớp nhân dân thấp kém hơn, trí thức tự coi mình thuộc giai cấp thượng tầng, gần gũi với giai cấp cầm quyền hơn giai cấp công nông thương và họ tự hào là họ có khả năng đạo đức và trí tuệ cao hơn cả giai cấp cầm quyền trong khi những đặc quyền mà họ được hưởng so với những đặc quyền của giai cấp cầm quyền thật ra không đáng kể. Khốn nỗi đồng thời trí thức lại tự thấy mình thua kém về quyền lực và đối với nhà cầm quyền, họ vẫn chỉ là kẻ bị trị. 2. Trí thức không nhất thiết phải có ý thức chính trị, phải tỏ rằng mình có lập trường chính trị vì:
3. Đại đa số trí thức không màng đến chính trị nhưng một thiểu số trí thức lại là những kẻ dấn thân hay hăng say hoạt động chính trị
Kết Luận: Tìm hiểu về vai trò của trí thức trong sinh hoạt chính trị giúp chúng ta hiểu được tại sao đa số trí thức lại thờ ơ trước hoàn cảnh hiện tại của đất nước Việt Nam của chúng ta. Thái độ tiêu cực của trí thức được biện minh bằng ý nghĩ cho rằng họ không có khả năng làm thay đổi được gì hết. Tri thức trẻ cả trong lẫn ngoài nước đều chỉ nghĩ tới quyền lợi cá nhân - cố học cho thành tài, kiếm được công ăn việc làm càng nhiều tiền càng tốt, hưởng thụ một cuộc sống vật chất thật đầy đủ, càng văn minh tiến bộ càng hay – còn chuyện đất nước thì đã có người khác lo. Trí thức lớn tuổi thì phần lớn đã bắt đấu mệt mỏi sau cả một đời vật lộn với cuộc sống, chăm lo cho gia đình con cái, đến lúc này họ cũng mong sống sao cho sung sướng cái thân. Đọc bài “Why Viet Nam won’t fall” của tác giả Carl Robinson - http://www.worldpolicy.org/blog/2011/03/07/why-vietnam-wont-fall (xem bài dịch dưới đây), những ai còn chút tâm huyết không khỏi buồn tủi, chán nán trước một sự thật nảo nề. Trước thực trặng này vẫn có một số người - tỷ lệ rất nhỏ - lạc quan, họ vẫn giữ niềm hy vọng ở một ngày mai tươi sáng. Có điều đã mấy chục năm rồi chúng ta hy vọng và chúng ta còn hy vọng đến bao giờ? Hướng Dương txđ
Bài dịch: http://huongduongtxd.com/cachmangkhoxayraovn.pdf
|