Tôi đã mặc quần
áo chỉnh tề, sẵn sàng chờ Thi đến đón. Nhìn
vào
gương, tôi sửa lại chiếc cravate lần chót, tự ngắm
mình trong bộ complet mầu
xanh đen mà người hàng xóm đã cho tôi
cách đấy mấy tháng khi tôi mới tới định
cư tại nơi đây. Thời gian đó, tôi đã thường
đi theo người sponsor đến nhà thờ để
được những người trong cộng đồng Do Thái cho quần áo cũ.
Quần áo đó nói là cũ
nhưng còn rất tốt đối với tôi, một kẻ rách mướp
chân ướt chân ráo vừa từ Việt
Nam
đến xứ này tị nạn
vì nhiều cái còn mới tinh,
chỉ mới được mặc một hai lần. Vì khổ người tôi tương đối
lớn, không thua gì dân
Mỹ, phần lớn những quấn áo nhận được tôi đều mặc vừa. Lần
đó, tôi đã nhận được mấy
chục áo chemise, quần tây, áo ấm, áo
complet, và cả một áo pardessus xanh đậm
rất đẹp, nếu mua chắc cũng tốn nhiều tiền lắm.
Từ một xứ
nghèo nàn chết đói đến, tôi đã
không quen nhìn những bộ
quần áo đó vì đã bẩy năm, tôi
đã không thấy ai mặc complet, đeo cravate ở Saigon và những loại quần
áo âu tây sang trọng đó
đã trở thành một thứ xa lạ đối với tôi. Không
phải vì tôi nhà quê, nhưng là
vì
sau khi cộng sản xâm chiếm miền Nam - phần nửa quê hương
tôi còn tí tự do,
dân chủ và văn minh - tất cả mọi người dân
chúng tôi đã trở nên quê mùa,
thiếu
văn minh. Khi con người khổ sở cả
vì miếng
ăn thì ai nghĩ đến mặc đẹp, ai nghĩ đến lễ nghi, đến sự sang
trọng? Nay tôi đã
ở Mỹ, tôi lại được sống con người thật của tôi, con người
văn minh, biết ăn
diện, biết lễ nghi phép tắc.
Hôm ấy là
ngày hai mươi lăm tháng chạp năm tám mươi mốt,
ngày mừng
lễ Giáng Sinh. Đã bao nhiêu năm tôi
không biết mừng Giáng sinh là gì nữa. Đối
với phần đông mọi người, ngày Giáng Sinh là
ngày nghỉ, ngày lễ để ở nhà vui
chơi, nhưng đối với tôi nó đã là ngày
đi
làm cực khổ hơn để kiếm ra tiền nhiều hơn bình thường.
Những ngày dài lê thê ở Saigon, tôi đã sống
bằng lao động chân tay. Tôi
vốn dĩ sống bằng lao động trí óc, vì xưa kia
tôi là một thầy giáo. Trước ngày
xẩy ra cái gọi là “cách mạng thành
công” tôi đâu biết đến lao động? Tôi đâu
bao
giờ cầm cuốc sẻng hay kìm búa đâu mà bảo
tôi biết lao động? Tay tôi chỉ cầm cục phấn
hay cái bút, công
tác thể xác nặng nề nhất của tôi chỉ là viết
lên bảng hay phê lên bài viết của học
sinh. Ấy thế mà sau đó, tôi đã trở nên
một tay lao động chân chính, biết khuân
vác, biết cầm kìm, cầm búa, cầm đục, và
thảm hại hơn nữa, biết cong lưng đạp
chiếc xích lô để chở người hay hàng hoá,
và đôi khi cả hai. Những ngày giáng
sinh ai nấy đi chơi nhiều, tôi có thêm mối chở
và kiếm được gấp đôi gấp ba ngày
thường. Tẩt cả giá trị con người đã chỉ còn
là ở đồng tiền - nói theo Karl
Marx, đó là giá trị kinh tế của con người. Vi thế
những ông già bà cả hay những
ông sư bà vãi, nếu không sản xuất hay
góp phần trong sản xuất, sẽ không có tí
giá
trị kinh tế nào hết và vì không làm
họ sẽ không được ăn. Vì thế mẹ tôi, tuy đã
hơn
bẩy mươi, vẫn còn phải “tham gia sản xuất” bằng cách
trông coi các cháu - tức
là con cái hai vợ chồng tôi - để chúng
tôi đi sản xuất, vợ tôi đi làm công nhân
trong một nhà máy chế tạo dược phẫm dân tộc,
còn tôi thì đi đạp xích lô.
Nói
nhà máy chế tạo dược phẫm dân tộc nghe cho
nó vui tai chứ thực
ra đó là nơi chặt băm cây cỏ trước kia chỉ mọc dại
trong rừng không ai biết đến,
nay vì không có dược chất hóa chất để sản
xuất thuốc tây nên phải lấy về mà xay
rồi viên lại thành cái mà người ta gọi
là thuốc tễ, hay băm chặt ra, bỏ vào nồi,
đổ nước vào mà bỏ lên bếp củi - hay tệ hơn nữa
là bếp mạt cưa - mà đun mà nấu
cho nó đặc sền sệt lại, rồi đem đổ vào chai vào
lọ, dán nhãn hiệu lên, gọi là
thuốc dân tộc. Quả nhiên đó là thuốc
dân tộc vì trăm năm trước ông cha ta làm
gì có thuốc tây mà dùng? Nay
chúng ta lại trở về trăm năm trước, sống cái thời
cổ xưa của dân tộc ta là thế! Đó là
cái ý nghĩa mỉa mai của hai tiếng “cách
mạng” và “đổi đời”. Thay vì đổi mới, thì ta đổi
bằng cách trở về cái cũ, cái
xưa, cái của thời ông cha ta.
Tiếng chuông cửa
làm tôi giật mình tỉnh mộng. Thi đã đến để
đưa tôi
đến nhà Thảo, người em gái nàng, ăn bữa cơm tối
mừng lễ Giáng Sinh. Em vào chào
hỏi nói chuyện đdôi ba phút với bà G.
Bà G. là người bảo lãnh tôi đến Mỹ,
nói
nôm na bà là người khi đó nuôi
tôi cơm ăn ngày hai bữa, cho tôi một cái
giường
để tối đến tôi có chỗ nằm ngủ. Đền bù lại,
tôi phải mỗi ngày dẫn chó của bà đi
tè đi ị bốn năm lần, và tối đến sau bữa cơm, tôi
phải đứng nửa giờ trong nhà
bếp rửa bát, điã, niã, thìa, dao. Khốn khổ
cho cái thân tôi, tôi còn phải
chùi,
đánh bóng, lau khô và cất đi năm bảy
cái nồi, soong, chảo. Những ai không
thường xuyên làm cái công việc không
khó khăn nặng nhọc nhưng rất nhàm chán ấy
này
sẽ không hiểu được cái khổ của tôi. Do đó,
trong đầu tôi khi ấy chỉ mong chóng đến
ngày đủ lông đủ cánh bay đi tìm “tự do độc
lập hạnh phúc”.
Xong
chưa anh? Mình đi chưa?
Trông Thi vẫn như xưa,
tuy không đẹp nhưng vẫn dễ thương, vẫn phảng
phất cái vẻ xinh xinh của người con gái mà
tôi đã thương thầm cách đấy gần hai
chục năm về trước, khi cả hai đứa còn học chung ở Đại Học Sư
Phạm. Ngày ấy tôi
thương em trong chiếc áo dài mầu vàng nhạt
và tôi đã làm thơ tặng em. Em đã
hãnh
diện, em đã vui thích, nhưng không hiểu vì
lý do gì, em đã không đáp ứng lại.
Tôi
đã khổ sở nhiều vì mối tình một chiều ấy,
không phải chỉ vì tôi đã thương em quá
nhiều mà còn là vì tôi đã bị
chạm tự ái. Hồi ấy tôi đẹp trai thông minh và
có
bao nhiêu em gái thương thầm, mong được tôi
yêu lại. Nói cách khác tôi chưa bị
gái
chê. Vì tự kiêu, tôi càng bị hắt hủi
càng đeo đuổi em và em càng làm cao. Để rồi
càng tức càng buồn, tôi càng cố chinh phục
em. Thật là cái vòng lẩn quẩn không
đưa đến đâu, tôi đã tự làm khổ tôi một
thời gian không ngắn. Tôi đã không hiểu được
vì sao tôi không đạt được cái nguyện vọng
quá tầm thường như thế.
Sau này em đi lấy
chồng, chồng em ở ngoại quốc về, em cũng đi Mỹ tu
nghiệp, về nước em cũng làm lớn. Cuộc đời em lên hương,
nếu không có cái gọi là
“Đại Chiến Thắng Mùa Xuân” thì em đã sung
sướng hạnh phúc nhất đời. Nhưng mỗi
người đều có số mạng, đều có những đại hạn, tiểu hạn
sướng và khổ. Sau một đại
hạn tốt, công danh hai vợ chồng em lên như diều gặp
gió, là tiểu hạn xấu, gia
đình em đi vượt biển, chồng em bị hải tặc giết, em thành
góa phụ. Ôi cái cảnh
chung của bao nhiêu gia đình vào cái thời kỳ
bất hạnh đó!
Ngày tôi đến Mỹ,
tôi không hiểu bằng cách nào em đã
biết, em tìm ra
số điện thoại nơi tôi ở để gọi hỏi thăm. Lòng ưu ái
của em đã làm tôi cảm động
không ít! Như trăm ngàn người tị nạn khác,
tôi đang sống bơ vơ trên xứ người, tôi
đang cảm thấy cô đơn lạ lùng. Xa quê hương, xa gia
đình, xa những bạn bè thân
quyến, tôi đang một mình xoay sở, một mình đang
tìm cách đối phó với cuộc sống
mới. Tôi đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng, tinh thần xa
xút khủng khiếp. Ngày
còn ở Saigon tôi đã tưởng đi
được tới vùng đất tự do
thì cuộc đời tôi sẽ lên hương, tôi sẽ
có một cuộc sống thật sung sướng. Nhưng nay
tôi đã nhận thức ra rằng sự thể không đơn giản, con
người không chỉ đi tìm tự
do và cơm áo, còn những đòi hỏi tình
cảm không thể thiếu được. Tôi đã thấy cuộc
sống vô vị, sự cô đơn đã từ từ gặm nhắm hồn
tôi. Sống ở một nơi không có bao
nhiêu người Việt đến lập nghiệp, tôi đã không
tìm được ra bạn để làm quen, để
chia xẻ tâm tư, để ban cho nhau tí an ủi, làm ấm
lòng nhau đôi chút nhất là vào
cái mùa đông lạnh lẽo.
Tôi
biết Thi chẳng thương gì riêng tôi. Vì
thông cảm cái khổ khi phải
ra đi khỏi quê hương, đến xứ người lập lại cuộc đời, em đã
sẵn sàng ban chút
hạnh phúc cho những kẻ khốn nạn khốn khổ như tôi. Em gọi nói chuyện điện thoại với
tôi, xong hẹn
cuối tuần sẽ đón tôi về nhà em chơi. Lần
đó, em đã đưa tôi về nhà ăn cơm, cơm chỉ đơn
giản thịt kho nước dừa, dưa giá, nhưng
tôi sao thấy ngon quá, chưa bao giờ ngon như vậy trong
đời! Có lẽ vì suốt gần nửa
năm lăn lóc nơi các trại tị nạn và hai
tháng hơn ở Mỹ, tôi đã không được ăn những
thức ăn Việt Nam thuần túy đó. Tị nạn bên
Thái, cơm chỉ cá hộp thứ rẻ tiền do các
chính phủ khắp thế giới tặng cho dân tị nạn, hay cá
ươn nấu trong nước muối
tanh khiếp hồn nhưng cũng vẫn phải nuốt. So với mì sợi
làm bằng bột mì nhung
nhúc những con bọ đen, bo bo trước kia dành cho
trâu bò Liên Sô ăn, khoai lang
hà hay khoai mì thối mà trước bẩy mươi lăm chỉ đem
vứt thùng rác, những thức ăn
mà toàn dân miền Nam đã phải nuốt vào
những năm bẩy bẩy, bẩy tám ở Saigon, thì
những bữa cơm tị nạn đó còn ngon chán! Sang đến Mỹ
tha hồ thịt bơ sữa bánh mì, nhưng
ăn hoài cũng ngán, được ăn tí thịt kho mằn mặn
ngọt ngọt, phảng phất mùi nước
mắm và nước dừa, hương vị quê hương, thấy sao nhớ Saigon ơi là nhớ!
Lần đó, ngồi trong xe
hơi em lái phom phom, tôi thấy cuộc đời em đã
lại lên hương! Rồi về đến nhà em, thấy salon, tủ lạnh, ti
vi, tôi đã mơ ước một
ngày đẹp trời nào đó, tôi cũng có
được những thứ hàng xa xỉ ấy! Ôi sao ước mơ
của tôi lúc đó lại có thể tầm thường đến như
thế?
Anh
đã bắt đầu kiếm việc làm chưa?
Tôi mới chân uớt
chân ráo đến Mỹ. Có lẽ em tò mò muốn
biết tôi có đang
hưởng trợ cấp hay không. Tôi chẳng buồn nói với em
rằng bà G. không muốn tôi ăn
oen phe vì bà coi tôi là trí thức, ăn
oen phe là nhục.
Tôi đã
đi làm từ lâu rồi đấy chứ!
Anh
làm sao đi lại?
Ở cái xứ Mỹ đất rộng
đường dài này làm sao đi lại nếu không
có xe hơi?
Nhưng khi đó tôi vẫn còn tinh thần Việt Nam. Đi gần tôi đi cuốc
chân, đi xa tôi đạp
xe đạp. Lâu lâu tôi mới dùng xe buýt
vì thành thật mà nói tôi đâu
có tiền để
mua vé? Tôi nói để tự an ủi:
Tôi
đi xe bus, đôi khi đi bộ.
Em không hỏi tôi
làm gì. Em dư biết mới sang như tôi thì chỉ
làm
những công việc vặt, những công việc lao động tay
chân bốn năm đồng một giờ là
cùng, hỏi ra chỉ thêm đau lòng. Tôi tự hỏi
hồi mới đến Mỹ em làm gì mà sao mới
hai năm sau em đã tậu được đủ xe hơi nhà lầu, sống một
cuộc sống ngon lành như
vậy. Tôi không dám ngỏ lời, nhưng tôi
đoán em đã không phải làm những công
việc
tầm thường như tôi, công việc cu li khuân vác
những thùng rau cải và trái cây
cho một tiệm Đại Hàn, hay thu ngân cho một siêu thị
Do Thái.
Anh
có tính xin đi dạy học trở lại không? Ở New York City, có nhiều nơi cần
giáo sư song ngữ người
Việt mình…
Tôi đã
không muốn đi dạy trở lại nhưng làm gì hơn
bây giờ? Chẳng lẽ
cứ đi làm cu li như thế mãi? Đi dạy dù sao cũng
thoải mái hơn và kiếm được khá
tiền hơn.
Tôi
cũng đã nộp đơn ở
Brooklyn và đang chờ họ
kêu.
Em yên lặng không
nói gì. Em biết tôi không thích
cái nghề gõ đầu
trẻ này từ khi còn Saigon. Chẳng vì thế
mà tôi đã dành tám năm học
luật, để đến khi miền Nam xụp đổ, công mất toi,
ước vọng cho một tương
lai tươi sáng hơn xụp đổ theo. Tôi cũng chẳng thèm
buồn, vì đó là cái chịu
chung do thời cuộc đưa đến, mấy chục triệu người chúng tôi
đã phải rơi vào cùng
cảnh ngộ thiệt thòi mất mát, khổ sở. Tôi còn
may mắn hơn nhiều người vì đã trốn
đi và thoát được khỏi cái cảnh khốn nạn khốn khổ
còn kéo dài bao nhiêu năm sau đó.
Tôi
có thể xin một chiếc xe hơi cũ để anh dùng tạm, anh
có muốn không?
Mắt tôi bỗng
sáng lên tựa như đôi mắt đứa bé mẹ hỏi
có cái kẹo vừng
kẹo lạc có muốn ăn không. Nhưng tự ái không
cho phép tôi bộc lộ sự vui mừng vào
lúc ấy. Tôi giả vờ ngây ngô:
Tôi
chưa có bằng lái, lấy xe về làm gì?
Thì
anh đi xin bằng lái chứ gì?
Rồi em nói em sẽ
liên lạc với chủ xe và sẽ cho tôi biết khi
nào có
thể đến lấy về. Tôi chẳng dám hỏi em xe đó
là xe gì, còn tốt hay không. Biết em
là người sáng suốt, tôi đã tin rằng nếu xe
không còn dùng được em đã chẳng xin.
Có điều tôi đã rất ngạc nhiên trước sự thể
có người sẵn sàng cho không một
chiếc xe hơi. Chuyện đó chỉ có trên đất Mỹ,
làm sao có được ở Việt Nam?
Mình
sắp đến nhà Thảo chưa vậy?
Tôi đã muốn
thoát khỏi sự giằng co của lý trí. Tôi
đã nửa muốn có một
chiếc xe để đi lại cho dễ dàng, nửa không muốn xấu hổ
vì phải đi ăn xin, nhất là
trước mặt Thi.
Gần
tới rồi. Chừng năm phút nữa thôi à. Sao anh
nóng ruột vậy?
Tôi thán phục
tài lái xe của em khi thấy chiếc xe chạy vèo
vèo trên
những con đường trơn trượt vì tuyết rơi đã đóng
băng đen láy trên mặt lộ. Hai
bên đường tuyết phủ trắng xóa, trông tựa những cảnh
đẹp tuyệt vời mà xưa kia tôi
đã chỉ thấy trên những thiệp Giáng Sinh. Đấy
là lần đầu trong đời tôi đã thấy
tuyết rơi và biết đến cái lạnh khũng khiếp của mùa
đông xứ người. Hơn nữa mùa
đông tại New York năm đó, cái
mùa đông tiếp đón tôi đến tị nạn, đã
lạnh hơn và
nhiều tuyết hơn hơn mọi năm trước.
Tôi
nhớ lại những buổi sáng sớm tinh mơ, khoảng sáu giờ, chưa
có ánh
sáng mặt trời, tôi đã phải ra khỏi nhà để đi
bộ tới làm cu li tại tiệm bán rau
quả của một người Đại Hàn. Đi trong đêm tối, tuyết ngập
lên đến tận mắt cá
chân, tôi thấy mặc dù đã sống trên đất
tự do cuộc đời sao vẫn còn quá vất vả và
tôi đã thầm hỏi chính mình khi nào
thì vận đen của tôi mới hết, bao giờ tôi mới
bớt khổ. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại tôi tự nhủ mình còn
sướng chán. Hồi tôi còn ở Saigon tôi đâu
có thể kiếm tiền dễ dàng như bấy
giờ? Tuy không làm ra được bao nhiêu tiền nhưng vẫn
đủ tiêu, đủ để mua cà phê
uống, thuốc thơm hút. Thỉnh thoảng, tôi đã
có thể mua chai cognac nhỏ bỏ sẵn
túi áo trong để, khi không có ai xung quanh,
lấy ra làm một ngụm cho ấm bụng. Nếu
còn ở Saigon, tôi đã phải
uống gạo rang thay cho cà phê,
hút thuốc rê tự quấn lấy, và rượu thì chỉ
có thứ đế rẻ tiền cất từ bã mía. Hơn
nữa, nay tôi đã có thể nhìn thấy cái
ánh sáng le lói nơi đường hầm, tôi đã
có
thể tin rằng những công việc tôi đang làm chỉ
là những công việc mà tôi tạm
thời phải làm để sinh sống, chờ ngày vươn lên.
Tôi đã tin rằng mai đây nếu
quyết tâm tranh đấu, tôi sẽ khá, cuộc sống của
tôi cũng sẽ sung sướng như Thi.
Những ngày đen tối mịt mù của cái thời xa xưa, khi
tôi còn ở lại quê nhà, nay đã
trôi đi để không bao giờ trở lại, tôi không
còn nghĩ sẽ phải đạp xích cho đến
khi chết nữa!
Đến
nơi rồi! Anh nghĩ gì mà trông buồn quá vậy!
Đâu
có? Tôi làm sao buồn được khi ngồi cạnh Thi?
Thôi
đi anh, đừng sạo nữa!
Gần hai mươi năm trước,
có thể em cũng đã nghĩ tôi sạo, tôi
bông đùa
với tình yêu, tôi đã không thương em
thật. Thi dục tôi:
Anh
vào đi! Đứng ngoài ấy làm chi cho lạnh?
Có
tiếng ai đó từ sau cánh cửa hé mở:
Mời
anh vô! Lâu quá mới lại gặp anh! Trông anh vẫn
như xưa…
Cám
ơn Thảo đã nghĩ đến tôi và cho tôi đến dự lễ
Giáng Sinh với gia đình…
Có gì
đâu anh? Anh vô đây đi.
Hai mươi năm rồi tôi
không có dịp thấy lại người con gái có chiếc
răng khểnh, chiếc răng làm em có thêm duyên
khi cười. Ngày tôi biết em, em mới
mười lăm mười sáu, còn học đệ tứ hay đệ tam gì
đó tại Gia Long. Tôi đã đặt tên
cho em là “cô em gái của Thi”. Dạo ấy, em
còn là đứa bé gái nho nhỏ xinh xinh,
thường hay ra ngồi với chị và các bạn của chị
ngoài vườn, nơi gốc cây soài. Tôi
vẫn còn nhớ nụ cười chúm chím tươi như bông
hoa hồng của em. Ôi cái tuổi còn
ngây thơ, cái tuổi còn chưa biết rõ
yêu đương ra sao, còn tập tễnh đi vào thế
giới thần tiên của ảo mộng, cái tuổi mới biết hồi hộp, mới
thấy tim mình đập
nhanh hơn lên vì yêu, cái tuổi bắt đầu
có ước muốn vẩn vơ, sao nó trôi đi nhanh
quá thế! Ngày ấy em đang dò dẫm tìm hiểu về
cuộc đời, em đang thèm làm người lớn,
thèm biết, em đã muốn có người yêu. Nay
thì em đã là một người mẹ với ba đứa
con sắp đến tuổi dậy thì.
Khi xưa, tôi đã
muốn coi em như người em gái nhưng em lại không chịu,
em muốn thương tôi. Thế rồi đến lúc nào đó
cảm tình của em đã làm tôi bâng
khuâng, em đã thương tôi thiệt và tôi
cũng bắt đầu mến em hơn. Nhưng Thi cho rằng
em còn nhỏ chưa biết gì, không được nghĩ đến
yêu đương. Thi đã cấm em đi
vào con đường tình ái lộn xộn,
muốn em phải chú tâm vào việc họcđể lo cho tương
lai. Thi đâu biết rằng chính con
tim xúi người ta yêu, đâu phải bộ óc?
“Trái tim có những lý lẽ mà lý
trí không hiểu
đươc”, Racine đã chẳng nói
như thế? Thi đã tìm cách ngăn
cản mối tình giửa hai đứa chúng tôi và trong
một lá thư cho tôi nàng đã viết “Tôi
van xin anh, xin anh hãy buông tha cho em tôi!”
Buông tha?
Tôi tự hỏi tôi có làm gì đâu
mà buông tha? Tôi có dụ dỗ,
đeo đuổi, hay tống tình Thảo đâu? Thảo thương tôi
vì em thương tôi, tôi đâu có
làm điều gì để em phải thương tôi? Và nếu
tôi có thương Thảo, thì cũng đâu có
tội
gì? Thượng Đế tạo cho con người con tim để biết cảm xúc,
biết thương, biết yêu.
Ai cấm ai thương yêu bao giờ? Và tôi nhớ lúc
tôi mang lòng yêu Thi thì em có
cấm tôi yêu đâu mà bây giờ em lại cấm
đoán, em lại ngăn chặn, em lại dùng lời
van xin? Tại sao lại phải van xin? Cứ để cho tình yêu nẩy
nở, quá lắm thì chúng
tôi kết duyên với nhau, đâu có gì phải
thắc mắc lo lắng?
Tôi không nhớ
đêm Giáng Sinh năm đó tôi đã
làm gì. Tôi cũng chẳng
nhớ tôi đã nói gì với những ai. Có
một điều chắc chắn là suốt tối hôm đó hồn tôi
đã chìm vào một cơn mê đưa tôi trở về
quá khứ, trở về với những ngày xa xưa,
những ngày thần tiên nhất đời tôi. Những ngày
đó, tôi đã được sống tận cùng
những rung động của con tim, con người tôi đã được sống
trung thực nhất, tôi
chưa bị những kinh nghiệm đau thương dày vò, chưa bị
hoàn cảnh nghiệt ngã chi
phối. Cuộc đời sinh viên quả thật là quá nên
thơ, ai mà chẳng tiếc chẳng nhớ?
Tôi nhớ đến
Nguyệt, người bạn gái Thảo đã giới thiệu với tôi
khi em
thấy tôi buồn vì phải xa lánh em. Em muốn tôi
vui, em muốn tôi quen với Nguyệt để
em dễ dàng theo dõi tình trạng tâm hồn
tôi, lo cho tôi. Dư âm cay đắng của mối
tình tôi đã dành cho chị em vẫn còn
đó, em đã thấy và em không muốn tôi
kéo dài
thêm sự đau khổ. Nghĩ đến Nguyệt, tôi nay thắc mắc
không biết giờ này em đang ở
đâu, em còn nhớ “người anh trai” này hay
không?
Tôi nhớ đến lần
tôi đi ciné ở rạp Lê Lợi, phim chiếu hôm
đó, “Một
Ngày Như Mọi Ngày”, mang câu chuyện tình của
một nhà văn - hình như Fitzgerald
thì phải, tôi không còn nhớ rõ nữa.
Tôi đã mê mải xem những cảnh yêu nhau, những
cảnh tình tứ. Tôi đã say mê người đàn
bà trong phim - do Ava Gardner đóng vai -
vì nàng đẹp man dại, nàng có ánh mắt
mơ màng thu hút hồn tôi suốt cuốn phim… Và
khi phim hết, khi tôi rời khỏi rạp hát, đôi mắt
còn đỏ hoe, thì tình cờ tôi đã thấy
Thảo trong đám đông khán giả ra về. Không
biết em có thấy tôi không, nhưng khi thấy
em, tim tôi đã đập liên hồi, tôi đã
đuổi theo chân em nhưng không kịp. Em đã nhanh
chóng biến đâu mất. Em đi rồi, để tôi buồn vời vợi,
Tôi đã thất vọng và thọc
hai tay vào túi quần tôi đã đi bộ về
nhà, lòng chàn đầy nhớ nhung.
Và tôi nhớ đến
một lá thư trên giấy học trò em viết cho tôi,
em
trách tôi đã thay đổi, tôi không
còn là tôi nữa, không còn là
con người yếu
đuối nhiều tình cảm mà em đã yêu, nhưng sau
đó em lại nói rằng đó chỉ là cái vỏ
bề ngoài của tôi, bề trong của tôi vẫn thế đâu
có thay đổi được. Trong lá thư đó
em trích câu bất hủ Saint Exupéry đã viết
trong cuốn Le Petit Prince “Cái tôi
thấy chỉ là cái vỏ bề ngoài, cái quan trọng
tôi không thấy được”. Nguyên văn em
viết bằng tiếng Pháp, nét chữ mềm mại, tôi
còn nhớ đến bây giờ, “Ce que je vois
n’est que l’écorce, l’important est invisible”. Qua là
thư đó, em thổ lộ cho tôi
biết em đã thương tôi từ khi em còn rất nhỏ, khi em
mới học đệ tứ, và ba năm sau,
khi em viết cho tôi, em vẫn còn thương tôi. Những
ngày đó, tôi đã bắt đầu yêu
em, và nếu không có sự cản trở của Thi thì
biết đâu giờ này tôi vẫn còn được có
em bên tôi, tôi vẫn được em thương như thuở ấy?
Những gì ai làm
vào cái đêm Giáng Sinh năm ấy, tôi
đã không biết,
hay nay tôi không còn nhớ? Tôi chỉ nhớ
tôi đã được tặng hai món quà Noel, một
cây
pipe và một bao đựng thuốc hút. Hồi xưa, tôi
còn ngậm pipe và mê mùi thơm của
thuốc Seventy Nine khi mới đốt như mê những mối tình thắm
thiết lúc ban đầu.
Tôi không biết ai đã ưu ái với tôi,
người em hay người chị? Ai đã nghĩ đến tôi
và cho tôi món quà ấy? Nó mang một
ý nghĩa đặc biệt đối với tôi
vì nó là món quà đầu tiên
tôi nhận
được nơi đất lạ quê người và nó đã
làm ấm lòng tôi suốt mùa đông năm
đó. Cầm
cây pipe ấm trong tay, tôi mường tượng nó là
em, tôi ôm em trong lòng, em cũng
ấm áp như thế, em cũng cho tôi cái cảm giác
lâng lâng như khi tôi say thuốc,
cái cảm giác hơi choáng váng giống như
lúc bắt đầu say rượu. Nhưng tôi đã được
ôm em vào trong lòng bao giờ đâu, tôi
đã được hôn em đâu mà biết sướng như thế
nào? Chẳng qua đó chỉ là ảo tưởng của con người
đam mê thèm muốn mà không có,
không được?
Ôi bao
nhiêu năm thèm muốn chất chứa thành đồi
thành núi. Trong
nhưng giấc mơ ban đêm tôi đã thưc hiện với em những
gì tôi đã không thực hiện
được khi thức, tôi đã có những gì tôi
không có được lúc tỉnh. Em hay đến với
tôi vào những lúc tôi say, lúc
tâm trí tôi đã bấn loạn, lúc tôi
đã như
Baudelaire đi vào một thế giới của vô tiềm thức. Những
gì nằm trong tiềm thức
tôi đã thoát khỏi nơi ấy để đến với tôi, để
tôi được trong mê sảng sống hạnh
phúc, sống trong cái sung sướng trọn vẹn cùng
người em gái tôi thương yêu.
Tôi nhớ tối hôm
ấy, sau khi Thi đưa tôi về, trong căn phòng nhỏ
trên lầu có cửa sổ trổ ra mái nhà, tôi
đã ngồi ngay nơi đó nhìn bầu trời óng
ánh sao, ngồi hầu như suốt đêm uống cognac và
hút thuốc. Tôi đã trở về với quá
khứ sống lại những ngày thơ mộng xa xưa. Tôi đã
sống lại những lần tôi thấy em,
bé bỏng ngây thơ, đứng sau cửa vào vườn nhà
ở Chí Hòa. Em bảo tôi chị Hai đi
vắng khi tôi lấy cớ đến tìm chị Hai để được thấy em, để
được thấy em ngượng
ngùng đứng đó, nửa muốn nói chuyện với tôi,
nửa muốn chạy trốn vào trong nhà.
Đã bao lần tôi đến tìm chị Hai, em có đếm
hay không? Bao nhiêu lần chị không có
nhà để tôi được nghe em ra nói với tôi
câu ấy, câu “chị Hai không có nhà”. Cần
chi chị hai có nhà vì khi đó tôi
đâu còn buồn, còn nhớ chị Hai? Tôi đâu
còn đến
tìm chị Hai, khi đã có “cô em gái của
chị hai”?
Tôi không biết
những gì đã xẩy ra sau đó, sau lần chót
tôi được gặp
em cách đây đã hơn ba chục năm. Thế rồi em lớn
lên, em lấy chồng, em đi Mỹ ra
sao, tôi không hề biết. Cho đến lần đó, thấy được
lại em thì em đâu còn như
trước? Ngày xưa có lần viết cho tôi, em đã
nói rằng em đã hiểu tôi gần bằng
chính tôi hiểu tôi, em muốn lo cho tôi như em
lo cho chính em, em muốn tôi đừng
khổ nữa để mắt tôi mất vẻ cay đắng đi. Không biết khi em
thấy lại tôi, tôi còn
đôi mắt cay đắng nữa hay không, tôi còn buồn
như xưa nữa không, tôi còn cái tâm
hồn mà em đã yêu hay không? Có một
điều chắc chắn là bên trong cái vỏ anh hùng,
tôi vẫn còn yếu đuối như xưa, tôi vẫn sống bằng
tâm hồn, tôi vẫn buồn ghê gớm.
Ce que tu vois, ce n’est toujours qu’une écorce, l’important est
toujours
invisible. Tôi còn nghe văng vẳng rất xa ai nói
câu “ngày nào tôi không yêu anh
nữa, tôi vẫn muốn giúp cho anh bớt khổ, bớt buồn, bớt thấy
đời cay đắng.”
Lúc
tôi đi ngủ thì sao đã phai, trời
đã ửng sáng, và chai cognac đã
hết quá phân nửa. Vừa lên nằm trên giường,
tôi đã thiếp đi lúc nào không hay.
Viết tại San
Francisco
Ngày 25-12-1982
|