Trang Web Hướng Dương Txđ

Trở Về Trang Chính

Kẻ Quá Vãng
Truyện Ngắn Dị Thường của Hướng Dương txđ



Những ngày gần đây, Hoàng thấy cuộc đời anh buồn tẻ lạ. Anh không thấy còn hứng thú để làm bất cứ một việc gì. Anh cảm thấy anh đã bị dồn vào một ngõ cụt, không còn lối thoát. Anh không hiểu tại sao tự dưng anh cứ cảm thấy buồn, một nỗi buồn vô cớ xâm lấn tân hồn anh, một cơn buồn day dứt khôn nguôi làm cho anh cảm thấy khó chịu, anh muốn dứt ra khỏi nhưng không sao dứt được, nó cứ bám lấy anh, kéo dài ngày này sang ngày khác. Thật là lạ lùng. Cơn buồn ấy nó ám anh sáng cũng như chiều, ngày cũng như đêm làm cho anh lắm lúc cứ thừ người ra ngồi yên một nơi, không làm được gì hết. Anh suy nghĩ miên man, những ý nghĩ vu vơ, những câu hỏi không có câu trả lời, những hình ảnh lờ mờ hiện ra trong tâm trí anh làm cho tâm trí bấn loạn của anh càng thêm bấn loạn, anh càng đi sâu thêm vào một sự u mê, một hình thái của vô tiềm thức. Anh tiến vào một thế giới vô cảm, một thế giới giả tưởng mà anh cứ cho là hiện thực, những gì mơ tưởng anh thấy anh cứ cho là đang thật sự diẽn ra, đang đến với anh, đang sống động.

Như thế, có một lần anh đã trở về một căn nhà ở Thủ Đức, một căn phố hai tầng xây cất mới tinh trên một vùng đất hoang vu. Anh không nhớ rõ xung quanh có nhà cửa nào khác hay không, nhưng có một con đường nhựa dẩn vào căn nhà đó, một con đường không lớn lắm, đủ cho một chiếc xe hơi nhỏ lăn bánh, con đường dài hàng cây số hay hơn nữa, chạy ngoằn ngoèo qua bao nhiêu những cánh đồng cỏ xanh. Trên con đường đó anh đã đi một mình, lủi thủi bước tới. Anh đã cố gắng rảo bước vì trời đã về chiều và bóng tối đã ấp xuống nhanh chóng một cách lạ lùng. Hơn nữa cơn mưa sắp tới, anh thấy trên trời những cuộn mây đen lồng lộn trước cơn gió thổi, tiếng gió rít lên qua những cành cây xa xa làm nên một tiếng rên rỉ não nùng. Trong quang cảnh hãi hùng như thế, anh không cảm thấy một sự xúc động nào trong tâm hồn, anh không thấy hồi hộp hay sợ hãi, anh vẫn bình thản rảo bước, cố gắng làm sao về đến nhà trước khi cơn mưa lũ đổ xuống. Có lẽ anh không thích bị ướt sũng hay bị lạnh, vì anh vốn yếu ngực dể bị cảm và nhất là bị ho. Anh ghét nhất những cơn ho đã đến với anh hàng ba bốn tháng trời, những cơn ho rũ rượi làm cho anh mệt lả. Sau mỗi cơn ho như thế anh thấy như bất tỉnh trong vòng một hai giây đồng hồ, không còn biết gì nữa, anh thấy trong đầu một vực thẳm tối đen như mực để rồi từ từ ánh sáng trở lại, anh lại thấy hoàn hồn, thấy mình còn sống. Đã bao nhiêu lần như thế và anh đã sợ một lần nào đó anh chìm luôn vào cơm mê, không thức tỉnh được lại.

Hoàng đẩy cánh cửa không khóa bước vào nhà. Những giọt mưa đầu tiên đã rớt lên đầu, lên vai làm cho anh hơi rùng mình. Anh vừa khép cánh cửa thì cơn mưa đã dồn dập đổ xuống rồi một vệt ánh sáng khổng lồ loé lên trên nền trời bấy giờ đã tối đen như mực và chỉ tích tắc sau đó một tiếng xấm kinh hồn vang dội trong đêm tĩnh mịch làm cho anh giật mình tim anh đập dồn dập, trong khoảng khắc anh thấy hình như một cái gì đè lên lồng ngực làm cho anh ngộp thở. Tiếng mưa rào rào cộng với tiếng gió rít lên từng hồi dài ghe thật ghê rợn. Hoàng bỗng tự hỏi tại sao anh lại ở nơi đây, trong căn nhà xa lạ này, một căn nhà mới tinh xương còn mùi nồng của lớp vôi tường vừa sơn phết. Căn nhà chẳng có gì hơn là một chiếc bàn mộc đơn sơ và bốn chiếc ghế và trên bàn là một ấm tích trà và bốn cái tách đặt trên một khay tròn sơn son. Anh cầm chiếc nắp bằng vải đỏ nhồi bông có cái núm bằng sắt đậy trên giỏ chứa bình trà, bỏ sang một bên, cầm hai chiếc vòng bằng bạc, nhấc ấm tích lên. Anh tần ngần một lúc nhìn chiếc ấm tích lớn bằng thứ xứ trắng đục có sơn hình một thiếu nữ bận áo tàu đứng bên rặng trúc, toàn một mầu xanh. Đã gần ba chục năm anh không thấy lại loại ấm tích này vì ở nhà, vợ anh thường pha trà trong một chiếc ấm Nhật nhỏ bằng phân nửa. Hai chiếc quai ấm có hai đầu cuốn tròn lại hình xoắn ốc làm cho anh nhớ lại chiếc ấm mẻ vòi mẹ anh dùng mỗi ngày để pha trà hạt và anh thấy lại hình ảnh cái cốc lớn gộc mẹ anh thường rót trà vào, để cho nguội trước khi uống. Anh nhớ lại mùi trà hạt mới pha bốc khói thơm ngát và thèm được có một cốc nước trà như thế.

Hoàng nghiêng ấm tích rót trà vào chiếc tách tròn không tay cầm. Trà nóng bốc khói, mùi hoa lài thơm ngát làm cho anh cảm thấy khoan khoái. Anh bỏ ấm trà trở lại vào trong giỏ rồi dậy chiếc nắp vải lại như cũ. Anh kéo ghế ngồi xuống, ung dung cầm tách trà nóng vào trong lòng hai bàn tay để cảm thấy cái ấm toát ra từ tách trà. Căn nhà trơ trụi sao lãnh lẽo quá, anh cần một sự ấm cúng mà tìm đâu bây giờ? Anh thò tay lên túi áo, móc bao thuốc Pall Mall đỏ, để xuống mặt bàn, rồi đứng dậy sờ xoàng ngoài túi quần tìm chiếc quẹt máy Zippo quen thuộc. Anh ngạc nhiên khi không thấy nó đâu, rồi cố moi óc xem anh đã bỏ quên nó nơi nào. Anh tự nhủ: “Lạ thật, mình mới dùng nó đây, không lẽ mình đã để rớt nó lúc nào không hay? Hay là đứa nào đã móc túi mình?” Anh thấy tiếc chiếc bật lửa một mặt có khắc phù hiệu của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một vật kỷ niệm của anh Cả. Anh Cả tốt nghiệp khoá một, cả một đời hiên ngang trong bộ áo trận dù đỏ, đi đánh hàng trăm trận không chết để rồi chết khắc khoải sau 13 năm tù đầy. Cuộc đời thật là phi lý như thế đó.

Hoàng đứng dạy, cầm tách trà đi tới chiếc cửa sổ nhìn ra ngoài. Cả một khoảng không gian mịt mờ tối đen hiện ra trước mắt anh. Chẳng hiểu vì sao, anh cứ chăm chú hướng mắt về nơi xa xăm, như thể anh muốn tìm kiếm một cái gì trong cái bóng tối đen như mực tàu đó. Thế rồi bỗng nhiên anh cảm thấy ớn lạnh nơi sương sống, một làn sóng như điện giật chạy sau cột lưng anh làm cho anh sởn tóc gáy. Anh tự nhiên thấy cả thân mình run lên lẩy bẩy, một nỗi kinh hãi bất chợt xâm nhập đầu anh trong giây lát rồi anh lại hoàn hồn. Anh tự nhủ:  “Lại một cơn sốt rét đây! Có lẽ tốt hơn hết là mình đi nằm. Mình cần đắp nhiều lớp chăn cho khỏi bị cơn rét hoành hành.” Ngoài cánh cửa sồ, những tia chớp vẫn còn lóe lên từng hồi, nhưng cơn mưa lũ đã ngớt và không còn tiếng xấm gầm. Anh đưa chén trà nay đã nguội lên miệng uống một hơi rồi đem đặt chiếc tách không xuông bàn. Anh lững thững tiến về phiá cầu thang, dang tay bấm hai chiếc nút điện bên tường để tắt đèn dưới nhà và bật đèn trên lấu, rồi bước lên từng trên.

Tầng trên có một hành lang dài đưa vào bốn phòng ngủ, dọc theo hành lang có những chậu kiểng và trên tường treo những bức tranh sơn dầu, tranh lụa, và cả đôi ba bức tranh vẽ bằng vài nét nguệch ngoạc của Bé Ký. Tự dưng anh có cảm giác như căn nhà này quen thuộc, vì những bức tranh đó anh đã thấy tại một nơi nào đó rồi, một nơi nào mà nay anh không còn nhớ rõ nữa.

Hoàng đi hết hành lang, đưa tay xoay quả đấm, mở cửa bước vào trong căn phòng cuối cùng, một căn phòng lớn bốn mét trên bốn mét, trong có đầy đủ bàn ghế tủ giường. Anh liền nhận ra căn phòng ngủ của mình vì vẫn chiếc giường bọc da nâu đó, chiếc bàn để đèn đêm ở đầu giường mà anh đã mua tại tiệm Bombay, vẫn chiếc đèn tainted glass của Tiffany và phiá dưới bàn là chồng sách truyện của Guy de Maupassant và Daphne du Maurier mà anh đọc đi đọc lại bao nhiêu lần.

Hoàng cởi quần áo nằm xuống chiếc nệm dầy cộm, kéo chăn lên trùm cả đầu, sẵn sàng hứng chịu những cơn nóng lạnh từng đợt của bệnh sốt rét ác tính. Nhưng nằm một lúc lâu anh vẫn không thấy cơn lạnh run lên cầm cập như anh đã từng bị nhiều lần. Anh chỉ thấy nóng bức và ngộp thở vì cái chăn bịt kín, anh vùng đạp chăn xuống phía dưới chân giường và bắt đầu thở một cách khoan khoái. Chẳng bao lâu sau, anh cảm thấy cơn buồn ngủ từ từ ập đến, mắt anh díp lại, tâm hồn anh lắng xuống, đến với anh là một cảm giác nhẹ nhàng như thể anh đang đi vào cõi hư vô.

Vừa đúng lúc anh đang cảm thấy thật yên bình thì anh có tiếng động cạch cạch phía dưới sàn nhà, rồi chiếc giường bắt đầu rung chuyển như thề có một cơn động đất. Anh chưa biêt chuyện gì xẩy ra thì một làn hơi lạnh xà tới mặt anh làm cho anh tối tăm mặt mũi, cái lạnh lạ lùng đi sâu vào trong người anh rồi ở lại đó làm cho anh run lên cầm cập, đồng thời anh có cảm giác như có hai bàn tay vô hình bóp vào cổ làm cho anh muốn lè lưỡi, hết còn thở nổi. Anh ú ớ tính gào thét lên nhưng không được. Giọng anh đã bị tắt, miệng anh đã khô, đầu anh đã chìm vào một vùng tối đen, anh biết anh sắp bất tỉnh nên cố vùng vẫy nhưng vô ích. Anh thấy như có một bóng đen to lớn đang đứng trên giường, đè một chân lên ngực anh như để chấn giữ không cho anh cựa quậy, còn hai cánh tay dài thòn đang nắm chặt cổ anh mà bóp để cho anh tắt thở. Một lúc sau, cả người anh giẫy dụa, giật giật như đang thoi thóp, miệng anh mở rộng cố hớp từng hớp không khí, không khác gì cảnh con cá đang nằm giẫy chết trên thớt. Những làn sóng điện vẫn còn rung chuyển trong thân anh làm cho anh cảm thấy thật khó chịu nhưng chẳng làm gì được. Anh thấy sức anh đã yếu dần, anh không còn giẫy dụa nữa, anh đành chịu số phận, nằm yên chờ chết. Anh không biết anh nằm như vậy bao lâu, nhưng lúc anh toát mồ hồi tỉnh lại thì trời vẫn còn tối, anh dang tay với chiếc nút bấm bật chiếc đèn để nơi đầu giường. Chiếc đồng hồ chỉ một giờ sáng.

Hoàng nằm yên một lúc, anh nghĩ đến cơn ác mộng đã vừa đến với anh. Anh đã không nghĩ rằng chuyện ấy xẩy ra trong lúc anh tỉnh. Anh vốn không tin dị đoan, không tin ở những sự thể vô hình. Anh chỉ coi đó nhưng là hậu quả của việc anh mê đọc những chuyện dị thường, những chuyện ma quái, và tâm trí anh đã bị ám ảnh. Những lúc yếu đuối, tâm hồn dễ dao động, những hình ảnh mà anh đã tưởng tượng ra khi đọc truyện đã kết tinh lại và xuất hiện trong cơn ngủ làm cho anh trải qua nhưng cơn mê sảng như vừa qua.

Hoàng đứng dậy bước ra cửa sổ nhìn ra ngoài. Anh đã tỉnh ngủ và chưa hoàn hồn hẳn để có thể ngủ tiếp.  Bây giờ bầu trời không còn tối đen như mưc nữa. Cơn giông đã qua, trên nền trời hàng ngàn sao sáng chói và nửa vầng trăng lơ lửng bên những đám mây xanh, trông đẹp mắt vô cùng. Anh quay sang bên chiếc tủ nơi anh để chai rượu absinthe và chiếc ly pha lê nhỏ và tự rót cho mình một ly. Như thế, anh vừa ngắm trăng vừa nhập từng ngụm rượu để trấn tỉnh tinh thần. Những ngụm rượu nóng lúc đầu như muốn xé cổ họng vì sau cơn mê sảng miệng anh đã khô ráo, nhưng từ từ anh thấy tác dụng hữu ích của nó vì chỉ một lúc sau anh đã lấy lại bình tĩnh và tự chủ.

Anh đã đứng ngắm trăng và nhấp absinthe như vậy cũng cả tiếng đồng hồ, đã bao nhiêu lần anh rót rượu vào chiếc ly pha lê, anh không đếm, chỉ cho đến khi anh đã ngà ngà, anh mới nhận thức được rằng đã đến lúc anh phải trở lại với giấc ngủ. Anh đặt ly xuống mặt tủ, leo lên giường, ngả lưng xuống chiếc nệm.

Nhưng đầu anh chưa chạm chiếc gối lông chim êm ái thì anh có cảm giác như có ai đứng sau anh đưa hai tay giữ đầu anh lại, không cho anh nằm xuống. Anh vội vã ngồi nhổm lên quay lưng ra phía sau nhìn xem chuyện gì đã xẩy ra. Hay vì anh say nên có cái cảm giác quái gở đó? Anh lờ mờ thấy một bóng đen nhưng nghĩ mình yếu bóng vía nên đã tưởng tượng ra như thế và anh lấy tay quờ quạng thử xem bàn tay có gập vật gì hay không. Và quả nhiên tay anh không vướng víu, anh quơ đi quơ lại cho chắc ăn, rồi tính nằm xuống trở lại. Lần này anh có cảm giác rõ ràng hai bàn tay xương xẩu bấu vào vai anh và dựng anh giậy. Một sức mạnh vô hình giữ anh cứng đơ ở thế ngồi đó, anh nhìn thấy một bòng đen lơ lững trước mắt rồi biến sau bức tường phía trước.

Hoàng đang phân vân không biết phải làm gì thì anh thấy căn nhà lại chuyển động mạnh, chiếc đèn đầu giường lắc lư như muốn ngả xuống, bóng đèn phụt tắt rồi lại sáng lên rồi lại phụt tắt liên hồi. Cả người anh lại bị một luồng sóng như điện chạy qua làm cho tóc gáy anh dựng đứng và da anh nổi gai ốc, tim anh đẫp mạnh như muốn bể lồng ngực. Anh cảm thấy hồi hộp lạ thường nhưng không thấy sợ hãi. Hình như anh đang tò mò muốn biết rổi chuyện gì sẽ xẩy ra, anh muốn theo dõi những biến chuyền như thể lúc anh đang đọc một cuốn truyện kinh dị của Stephen King.

Thế rồi từ góc tường bên trái, một lỗ hổng to tướng mở ra, sau lỗ hổng lửa phừng phực cháy đỏ như thể đó là một hoả lò, cộng thêm với tiếng lách tách nổ, tiếng lùng bùng của những ngọn lửa vụt lên cao rồi hạ xuống, trông thật là hãi hùng. Hoàng có cảm tưởng anh đang đứng trong một nhà máy luyện thép ở Thái Nguyên, chỉ có một điều khác là anh không cảm thấy hơi nóng bốc ra, không ngửi thấy mùi khói, và không thấy tàn tro bay. Anh đang phân vân tự hỏi mình đang ở đâu thì anh thấy từ trong lỗ hổng có lửa cháy phừng phức ấy một người đàn ông to lớn, vạm vỡ, vẻ mặt phương phi, ăn bận theo lối tây phương bước ra. Hoàng đưa tay lên dụi mắt và anh cố dương mắt lên nhìn cho kỹ. Anh thấy rõ ràng bộ mặt xương xương với nước da xam xám, đôi mắt đen xâu hoẵm, cái mũi lõ cao như thể người ấy là một ông tây hay ít ra cũng phải là một ông tây lai. Trông ông ta không có vẻ gì đáng sợ, trái lại Hoàng thấy ông có một vẻ hiền lành từ tốn, ông bước đi khoan thai như thể hai bàn chân ông lướt trên sàn nhà, nhẹ nhàng như một người đang biễu diễn một điệu Ballet. Hoàng thấy ông làm dấu bằng tay bảo anh đi theo. Anh bèn đứng dậy và hai người đi dọc theo hành lang về phía trước nhà, nơi có chiếc lan can khá rộng. Bầu trời vẫn đầy sao lóng lánh và vầng trăng, nay đã chuyễn sang phía bên trái, vẫn tỏa xuống một thứ ánh sáng xanh nhạt mờ ào thật đẹp, thật quyến rũ.

Người đàn ông ngồi xuống chiếc ghế bành rồi nói:

  • Anh Hoàng, anh hãy ngồi xuống đây. Tôi có một việc muốn nhờ anh. Anh hãy nghe tôi nói…
  • Ông là ai mà lại biết tên tôi?
  • Tên tôi là André Duvaillier. Trước kia tôi là sĩ quan hải quân Pháp làm việc cho Công Sứ Nam Kỳ.
  • Sao ông nói rành tiếng Việt vậy?
  • Tôi đến Việt Nam năm 1905 khi tôi mới 21 tuổi. Kể từ ngày đó, tôi đã sống chết ở Việt Nam. Tôi đã lấy vợ Việt và sanh con đẻ cái ở đất nước này. Tôi đã chọn Việt Nam là quê hương.
  • Cái gì đã thúc ông làm như vậy?
  • Tôi cũng chẳng biết nữa. Có thể vì tôi mến mảnh đất này, Có thể vì tôi thương người đàn bà tôi đã lấy làm vợ.
  • Bà ấy là ai vậy?
  • Một người con gái quê ở vùng này. Tôi đã dừng chân nơi đây nhân một chuyến đi công tác. Sau khi cưới nhà tôi, tôi từ bỏ công danh sự nghiệp để về đây sinh sống với nàng.
  • Ông vừa nói rằng ông sanh con đẻ cái. Thế ông có mấy đứa?
  • Hai vợ chồng tôi có một trai một gái. Tôi đã cho cả hai đứa đi về Pháp trước ngày thế chiến bùng nổ. Đến năm 1945, hai vợ chồng tôi bị quân Nhật giết chết, dân làng xung quanh thương tình chôn chúng tôi ngay tại nơi đây.
  • Ông nói chỗ nào?
  • Ngay dưới nền hiên sau nhà, gần tường phía bên phải.
  • Thế ông muốn tôi phải làm gì để giúp ông?
  • Cháu gái tôi tên Alice hiện sống với gia đình ở vùng Camargues, miền nam nước Pháp. Tôi muốn ông tìm cách liên lạc với nó, bảo nó về bốc mộ cho hai vợ chồng tôi đem về Pháp an táng.
  • Làm sao tôi làm được việc đó?
  • Anh phải làm cho được việc này. Tôi sẽ luôn luôn theo dõi và trợ giúp anh.

 

Nói đến đây, người đàn ông biến mất trong nháy mắt. Hoàng ngồi thừ ngưới ra một lúc như kẻ mất hồn. Lần lần, gió mát và suơng đêm làm cho anh tỉnh khỏi cơn u mê. Anh ngối lại một chốc như muốn chờ đợi một chuyện gì nhưng rồi không có gì xẩy ra nữa. Anh không biết làm gì hơn là trở về phòng, cố tìm lại giấc ngủ.

 

***********

Hơn một năm sau, Hoàng đã đưa Alice về căn nhà ở Thủ Đức. Việc bốc mộ cho ông bà ngoại Alice đã chu toàn khá nhanh chóng và Alice đã, đúng theo ý nguyện của những người quá cố, đưa hài cốt về Pháp chôn cất trong phần một của gia đình Duvaillier.

Có điều Hoàng thấy khó hiểu là khi anh trở về căn nhà ở Thủ Đức cùng Alice thì căn nhà đó trống không và đang để bảng bán. Anh đã đi một vòng để xem xét nhưng anh không còn thấy đồ đạc trong nhà như anh đã thấy trong cơn ác mộng năm trước. Alice, một người đàn bà lục tuần nhưng trông vẫn còn rất đẹp, đã hỏi anh khi thấy anh ngơ ngác đi tìm lại những dấu vết cũ:

  • Anh Hoàng! Anh không nhận ra căn nhà này hay sao? Năm trước anh đã gập ông ngoại tôi nơi đây mà!

 

Hướng Dương txđ
Viết tại Cựu Kim Sơn ngày 4-4-05


Trở lại Đầu Trang